Một trong 3 nhiệm vụ chiến lược của ngành kho vận (logistics) TP HCM giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030 là tập trung phát triển logistics cho lĩnh vực thương mại điện tử. Theo đó, đặt ra yêu cầu thống nhất và đồng bộ các giải pháp từ vận tải, giao thông, thương mại và khoa học công nghệ; phối hợp với các sở, ngành liên quan với các cơ chế chính sách từ nhà nước và chính quyền địa phương sẽ thúc đẩy quá trình đổi mới này.

Rào cản chi phí đầu tư

Theo thống kê thực trạng số hóa ngành logistics trên địa bàn TP, tỉ lệ doanh nghiệp (DN) trên địa bàn TP có ứng dụng ERP đạt 44,8%, ứng dụng hệ thống quản lý kho hàng đạt 41,4%, quản lý vận tải đạt 44,8% và vẫn còn số lượng lớn DN chưa tiếp cận được. Con số này cho thấy ngành logistics vẫn chưa tối ưu hóa hiệu quả hoạt động.

Các DN đa quốc gia đều được trang bị các hệ thống này, khi vào hoạt động tại thị trường Việt Nam, đều dùng chung hệ thống của công ty mẹ. Với các công ty trong nước, chỉ có những DN lớn chuyên làm kho phân phối như Tổng Công ty Tân Cảng, Gemadept, Vinafco, U&I, TBS, Transimex, Sotrans… mới có đủ nguồn lực để phát triển các ứng dụng quản lý kho hàng, đạt mức đồng bộ dữ liệu giữa các bộ phận giao hàng, quản lý hàng tồn, kế toán tài chính.

Khó khăn lớn nhất trong chuyển đổi số ngành logistics, nhất là các DN nhỏ và vừa, là vấn đề kinh phí đầu tư. Đầu tư theo hướng tự động hóa của các mô hình và phần mềm nước ngoài thì tốn nhiều chi phí đầu tư ban đầu; còn nếu tự làm theo mô hình nội bộ sẽ mất nhiều thời gian, khó khăn, chi phí nguồn nhân lực công nghệ thông tin… Do đó, DN chưa mạnh dạn hoặc không có khả năng đầu tư. Bên cạnh đó, một số nguyên tắc chưa có trong luật và hệ thống quản lý nhà nước cũng tạo rào cản cho số hóa trong logistics như chưa có luật về logistics, luật về e-logistics, thủ tục hành chính phức tạp… Việc liên kết, đồng bộ dữ liệu giữa các hãng vận chuyển (đường bộ, đường thủy, đường hàng không), hải quan, cảng biển, cảng hàng không và trong chính nội bộ DN logistics đang gặp khó khăn. Tỉ lệ DN logistics có sử dụng công nghệ mã vạch chỉ chiếm 10,2% và sử dụng công nghệ nhận dạng qua tần số vô tuyến (RFID) chiếm 2,5%. Tỉ lệ này còn thấp, cần được cải thiện trong thời gian tới vì mã vạch và RFID là công cụ cơ bản để quản lý dòng lưu chuyển hàng hóa.

Tuy 99% phương tiện vận tải gắn thiết bị giám sát hành trình GPS, tỉ lệ DN sử dụng chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) để khai báo hải quan, xử lý vận đơn… đạt 72,4% nhưng việc ứng dụng điện toán đám mây, công nghệ Blockchain, trí tuệ nhân tạo vẫn còn rất hạn chế trong các DN logistics trên địa bàn - Khải Xuân (KXS).

Tối ưu hóa kho vận từ chuyển đổi số - Ảnh 1.

Làm thủ tục hải quan tại cảng Cát Lái (TP HCM)Ảnh: Hoàng Triều